PHÂN BIỆT CÁC LOẠI VE, BỌ CHÉT RẬN PHỔ BIẾN Ở CHÓ, MÈO

PHÂN BIỆT CÁC LOẠI VE, BỌ CHÉT, CHẤY, RẬN PHỔ BIẾN NHẤT Ở CHÓ, MÈO

CÁC LOÀI KÝ SINH TRÙNG PHỔ BIẾN Ở CHÓ VÀ MÈO

Ký sinh trùng là một sinh vật sống ký sinh trên một sinh vật sống khác (con người, động vật, thực vật), được gọi là ký chủ. Chúng sống hoàn toàn phụ thuộc vào ký chủ để tồn tại, phát triển và sinh sôi. Do đó, ký sinh trùng hiếm khi giết chết ký chủ, nhưng nó có thể là nguồn lây lan bệnh tật, và một vài trong số này có thể gây tử vong cho ký chủ.

Ký sinh trùng có thể ký sinh ở nhiều vị trí và nhiều cách sống khác nhau trên cơ thể con vật. Có thể phân loại ký sinh trùng theo nhiều cách, trong đó ngoại ký sinh trùng và nội ký sinh trùng được chia theo chỗ cư trú của chúng.

Trong bài viết này, xin mời các bạn hãy cùng Thiên Quân tìm hiểu qua một số loài ve, bọ chét, chấy, rận phổ biến ở chó, mèo hiện nay.

1. Bọ chét

Bọ chét là loài côn trùng không cánh với đôi chân sau mạnh mẽ cho phép chúng nhảy rất xa. Những loài ngoại ký sinh này hút máu của vật chủ thông qua các bộ phận trong miệng xuyên qua mạch máu.

1.1 Bọ chét mèo (Ctenocephalides felis)

Được biết đến với cái tên bọ chét mèo, đây là loài bọ chét phổ biến nhất trên chó và mèo trên thế giới. Một số động vật nhạy cảm với nước bọt của chúng, gây ra phản ứng dị ứng (viêm da dị ứng do bọ chét cắn).

Nó là vật chủ trung gian của các loại ký sinh trùng khác như Dipylidium caninum và Acanthocheilonema reconditum. Nó cũng truyền bệnh Bartonella henselae gây bệnh mèo cào.

Ctenocephalides felis (Saari et al., 2018)

1.2 Bọ chét chó (Ctenocephalides canis)

Được biết đến là bọ chét chó, nó có hình thái khá giống với bọ chét mèo. Tuy nhiên, chúng không thể sinh sản với nhau. Nó lây nhiễm cả chó và mèo, cũng như con người. Ngoài ra, chúng còn là vật chủ trung gian của Dipylidium caninum và Acanthocheilonema reconditum.

Ctenocephalides canis (Durden y Hinkle, 2019)

1.3 Bọ chét ở người (Pulex irritans)

Nó được gọi là bọ chét ở người, nhưng nó cũng có thể lây nhiễm sang chó, mèo và các vật nuôi khác, mặc dù nó thường phổ biến hơn ở lợn. Đôi khi chúng đóng vai trò là vật trung gian truyền bệnh Yersinia pestis, tác nhân gây bệnh dịch hạch. Trong một số trường hợp thú cưng xâm nhập, nguồn lây nhiễm có thể là từ người chủ.

Pulex irritans (Durden y Hinkle, 2019)

1.4 Bọ chét đen (Xenospylla cheopis)

Được biết đến như bọ chét chuột phương Đông hoặc bọ chét đen. Nó chủ yếu lây nhiễm ở chuột và con người, mặc dù đôi khi nó có thể được tìm thấy ở các vật nuôi khác. Đây là vật trung gian truyền bệnh chính của Yersinia pestis, gây bệnh dịch hạch. Chúng có thể tồn tại trong thời gian dài bên ngoài vật chủ, điều này tạo điều kiện cho sự lây nhiễm từ môi trường.

Xenospylla cheopis (Durden y Hinkle, 2019)

1.5 Bọ chét gà (Echidnophaga gallinacea)

Được biết đến như bọ chét gà hay bọ chét dính. Nó chủ yếu lây nhiễm vào gia cầm, nhưng cũng có thể lây nhiễm sang chó và mèo. Ở những loài động vật này, bọ chét dính thường được tìm thấy xung quanh rìa tai ngoài và đôi khi ở giữa các miếng đệm ngón chân. Con cái bám vào nơi kiếm ăn gây viêm và loét vùng bị ảnh hưởng, dẫn đến nhiễm trùng thứ cấp.

Echidnophaga gallinacea (Durden y Hinkle, 2019)

1.6 Bọ chân (Tunga penetrans)

Được biết đến như bọ chét, bọ chân hoặc bọ chét cát. Nó chủ yếu lây nhiễm cho người, linh trưởng và lợn, nhưng nó cũng có thể lây nhiễm cho chó và các vật nuôi khác.

Ở chó, nó có thể được tìm thấy cục bộ trong các khoảng kẽ ngón tay, dưới các miếng đệm và bìu. Con cái chui vào da của vật chủ, gây loét và nhiễm trùng thứ cấp. Trong trường hợp nhiễm trùng ít nghiêm trọng hơn, chúng gây kích ứng và ngứa.

Tunga penetrans (Durden y Hinkle, 2019)

2. Chấy

Chấy là loài côn trùng ăn máu, lông, da hoặc các sản phẩm từ da của vật chủ. Chúng được chia thành chấy cắn (Amblycera , Ischnocera và Rhynchophthirina) và chấy hút (Anoplura).

2.1 Rận mèo cắn (Felicola subrostratus)

Nổi tiếng là rận mèo cắn. Đây là loài rận duy nhất thường tấn công mèo. Vấn đề xảy ra nhiều hơn ở chó con và giống chó lông dài. Sự lây nhiễm xảy ra chủ yếu ở mặt, lưng và tai. Chúng gây kích ứng dữ dội dẫn đến trầy xước nghiêm trọng, viêm da và rụng lông trên lưng mèo bị nhiễm khuẩn. Điều này có thể dẫn đến nhiễm trùng thứ phát do vi khuẩn.

Felicola subrostratus (Taylor et al., 2015)

2.2 Rận lông hút máu (Heterodoxus spiniger)

Nó lây nhiễm vào chó, các động vật ăn thịt khác và có thể tìm thấy ở bất cứ đâu trên cơ thể vật chủ. Đó là loài rận cắn thường xuất hiện kèm theo các rối loạn sức khỏe khác, chẳng hạn như ký sinh trùng bên trong, các bệnh truyền nhiễm và suy dinh dưỡng.

Heterodoxus spiniger (Durden y Hinkle, 2019)

2.3 Rận chó hút sữa (Linognathus setosus)

Được mệnh danh là rận chó hút sữa. Nó lây nhiễm vào chó và các loài canids khác, chủ yếu là các giống chó tai dài như Spaniel, Basset Hound và Afghan Hound. Nó có thể gây thiếu máu và có tầm quan trọng gây bệnh cao hơn ở động vật non. Nó chủ yếu được tìm thấy ở đầu và cổ. Ngoài ra, nó có thể là vật chủ trung gian của Acanthocheilonema reconditum.

Được mệnh danh là rận chó hút sữa. Nó lây nhiễm vào chó và các loài canids khác, chủ yếu là các giống chó tai dài như Spaniel, Basset Hound và Afghan Hound. Nó có thể gây thiếu máu và có tầm quan trọng gây bệnh cao hơn ở động vật non. Nó chủ yếu được tìm thấy ở đầu và cổ. Ngoài ra, nó có thể là vật chủ trung gian của Acanthocheilonema reconditum.

Linognathus setosus (Durden y Hinkle, 2019)

2.4 Rận chó cắn (Trichodectes canis)

Nổi tiếng là rận chó cắn. Nó lây nhiễm vào chó và các loài chó khác và có thể rất có hại cho chó con và chó lớn tuổi. Nó chủ yếu được tìm thấy gắn liền với chân lông trên đầu, cổ và đuôi, nơi nó ăn các mảnh vụn mô và gây ra kích ứng dữ dội. Hơn nữa, nó đóng vai trò là vật trung gian truyền bệnh sán dây Dipylidium caninum.

Nổi tiếng là rận chó cắn. Nó lây nhiễm vào chó và các loài chó khác và có thể rất có hại cho chó con và chó lớn tuổi. Nó chủ yếu được tìm thấy gắn liền với chân lông trên đầu, cổ và đuôi, nơi nó ăn các mảnh vụn mô và gây ra kích ứng dữ dội. Hơn nữa, nó đóng vai trò là vật trung gian truyền bệnh sán dây Dipylidium caninum.

Trichodectes canis (Durden y Hinkle, 2019)

3. Bọ ve

Bọ ve là loài nhện hút máu được biết đến như là vật trung gian truyền nhiều mầm bệnh khác nhau. Chúng thường được chia thành hai nhóm là bọ ve mềm (Argasidae) và bọ ve cứng (Ixodidae) mặc dù trên thực tế có 3 họ là Argasidae, Ixodidae và Nuttalliellidae .

3.1 Bọ chó Mỹ (Dermacentor variabilis)

Được biết đến như là bọ chó Mỹ. Nó lây nhiễm vào chó, ngựa, gia súc và con người, cũng như các loài hoang dã và vật nuôi khác nhau. Khi ăn vào vật chủ, nó có thể gây ra hiện tượng được gọi là tê liệt bọ ve.

Được biết đến như là bọ chó Mỹ. Nó lây nhiễm vào chó, ngựa, gia súc và con người, cũng như các loài hoang dã và vật nuôi khác nhau. Khi ăn vào vật chủ, nó có thể gây ra hiện tượng được gọi là tê liệt bọ ve.

Dermacentor variabilis (Durden y Hinkle, 2019)

A) Cái B) Đực

3.2 Ve chó nâu (Rhipicephalus sanguineus)

Được biết đến như ve chó màu nâu hoặc ve cũi, nó cũng có thể lây nhiễm các loài động vật có vú và chim khác. Ở chó, nó thường được tìm thấy ở tai và giữa các ngón chân. Trong khi giai đoạn chưa trưởng thành lại thích cổ hơn. Nó là nguyên nhân lây truyền bệnh Babesia canis và Ehrlichia canis và cũng có thể gây tê liệt bọ ve ở chó.

Rhipicephalus sanguineus (Durden y Hinkle, 2019)

A) Cái B) Đực

3.3 Bọ ve tai gai (Otobius megnini)

Được biết đến như bọ ve tai gai. Nó thường lây nhiễm cho vật nuôi bao gồm chó và mèo, nhưng cũng có thể lây nhiễm cho con người. Ấu trùng và nhộng ăn trong ống tai ngoài của vật chủ, gây viêm nặng và tiết dịch huyết thanh trong ống tai. Điều này dẫn đến nhiễm trùng thứ phát do vi khuẩn có thể lan đến ống tai. Đôi khi vết xước do cảm giác khó chịu tạo ra có thể làm thủng màng nhĩ.

Otobius megnini (Lindström y Lindström, 2017)

4. Mạt

Mạt bụi nhà là loài nhện trong đó hầu hết đều có vật chủ tương đối cụ thể. Chúng sống trên da của động vật có vú và chim, nơi chúng ăn máu, bạch huyết, cặn da và chất tiết bã nhờn mà chúng ăn vào bằng cách chọc thủng da, đào trên bề mặt.

4.1 Cheyletiella blakei

Loại mạt này được tìm thấy ở mèo và thường không gây bệnh nhiều. Bệnh này phổ biến nhất ở mèo non, mèo lông dài và thường gây nhiễm trùng ở mặt. Nó dễ dàng lây truyền sang người, gây kích ứng và ngứa dữ dội. Chẩn đoán dương tính thường liên quan đến tiền sử phát ban trên da của chủ sở hữu.

Cheyletiella blakei (Durden y Hinkle, 2019)

4.2 Cheyletiella yasguri

Loại này được tìm thấy ở chó và phổ biến hơn ở những con còn nhỏ và lông ngắn, mặc dù nhiều con đóng vai trò là vật chủ không có triệu chứng. Nó thường lây nhiễm ở đầu và lưng, nhưng có thể được tìm thấy ở các vùng khác trên cơ thể. Nó dễ dàng lây truyền sang người, ngay cả khi tiếp xúc tối thiểu, gây kích ứng và ngứa dữ dội, do đó chẩn đoán dương tính với nó thường liên quan đến tiền sử phát ban trên da của chủ nhân.

Cheyletiella yasguri (Saari et al., 2018)

4.3 Otodectes cynotis

Được gọi là ve tai, nó được tìm thấy trên chó, mèo và các động vật có vú nhỏ khác. Chúng thường xâm nhập vào ống thính giác bên ngoài nhưng cũng có thể xâm nhập vào các khu vực khác như đầu, lưng, chóp đuôi và chân. Tai của động vật bị nhiễm khuẩn có thể sưng lên và ẩm ướt với dịch tiết màu nâu sẫm. Viêm tai giữa nặng và co giật có thể phát triển ở những vật chủ bị dị ứng quá mẫn.

Được gọi là ve tai, nó được tìm thấy trên chó, mèo và các động vật có vú nhỏ khác. Chúng thường xâm nhập vào ống thính giác bên ngoài nhưng cũng có thể xâm nhập vào các khu vực khác như đầu, lưng, chóp đuôi và chân. Tai của động vật bị nhiễm khuẩn có thể sưng lên và ẩm ướt với dịch tiết màu nâu sẫm. Viêm tai giữa nặng và co giật có thể phát triển ở những vật chủ bị dị ứng quá mẫn.

Otodectes cynotis (Durden y Hinkle, 2019)

4.4 Sarcoptes scabiei

Được biết là gây ra bệnh ghẻ Sarcoptic. Nó được tìm thấy ở tất cả các vật nuôi và con người. Nó chủ yếu được tìm thấy ở những vùng có nhiều lông mịn như tai, mõm, mặt và khuỷu tay, nhưng cũng như các bệnh ghẻ khác, khi nhiễm nặng, nó có thể lan ra toàn bộ cơ thể. Bệnh ghẻ Sarcoptic rất hiếm gặp ở mèo.

Sarcoptes scabiei (Ninomiya y Ogata, 2005)

4.5 Notoedres cati

Được biết đến như là loài ve Notohedral của mèo. Nó chủ yếu lây nhiễm ở mèo, mặc dù nó có thể lây nhiễm các động vật có vú khác. Đôi khi nó xâm nhập vào nang lông và tuyến bã nhờn gây tăng sừng và làm dày lớp biểu bì.

Notoedres cati, mặt lưng (trái) và mặt bụng (phải)

(Durden y Hinkle, 2019)

5. Demodex canis

Nó chủ yếu được tìm thấy trong nang lông và tuyến bã nhờn của chó. Chúng thường không gây bệnh và là một phần bình thường của hệ động vật da. Đôi khi chúng có thể gây bệnh lâm sàng nghiêm trọng, gây ra bệnh ghẻ lở do demodex.

Mặt bụng của Demodex canis (Durden y Hinkle, 2019)

6. Demodex cati

Nó được tìm thấy chủ yếu ở nang lông và tuyến bã nhờn của mèo. Bệnh ghẻ demodex hiếm gặp ở mèo. Nhưng nó có thể xảy ra ở những con mèo yếu, thường chỉ giới hạn ở mí mắt và vùng quanh mắt.

Mặt lưng của Demodex cati (Durden y Hinkle, 2019)

KÝ SINH TRÙNG PHỔ BIẾN Ở VIỆT NAM

Thực hiện kiểm tra, đánh giá và điều trị đối với bệnh ký sinh trùng ở vật nuôi, trước tiên cần phải biết các loài ký sinh trùng có sự hiện diện nhiều nhất ở nước ta từ đó có thể đưa ra những phác đồ điều trị hiệu quả và phòng ngừa cần thiết.

Theo nghiên cứu của Nguyễn Hỗ Bảo Trân và Nguyễn Hữu Hưng (2014) khảo sát tình hình nhiễm ngoại ký sinh trùng trên chó tại thành phố Cần Thơ cho kết quả có 5 loài ngoại ký sinh trùng được tìm thấy. Tần suất xuất hiện các loài ngoại ký sinh trùng ở 208 chó là 2 loài ve là 25% Rhipicephalus sanguineus và 18,27% Boophilus microplus, 2 loài bọ chét là 3,85% Ctenocephalides canis, 1,92% Ctenocephalides felis và 1 loài Demodex canis 9,62%.

La Thị Ánh Minh và Nguyễn Hữu Hưng (2021) đã tiến hành một nghiên cứu tại tỉnh An Giang, với tổng số mẫu 324 con chó được khảo sát có 139 con chó nhiễm ngoại ký sinh trùng với tỷ lệ nhiễm chung là 42,90%. Kết quả ghi nhận có 8 loài ngoại ký sinh trùng được tìm thấy trên chó tại tỉnh An Giang bao gồm ve (Rhipicephalus sanguineus, Boophilus microplus), bọ chét (Ctenocephalides canis, Ctenocephalides felis felis), mò bao lông (Demodex canis), rận (Trichodectes canis), ghẻ (Sarcoptes canis, Otodectes cynotis). Trong đó, loài Rhipicephalus sanguineus nhiễm phổ biến nhất (26,85%), kế đến là loài Ctenocephalides canis (18,83%), Boophilus microplus (16,98%), Ctenocephalides felis felis (14,81%), loài Demodex canis (8,33%), Otodectes cynotis (7,41%), Trichodectes canis và Sarcoptes canis nhiễm thấp (3,70%).

Điều cần thiết là trong tương lai phải thực hiện nhiều nghiên cứu hơn ở các vùng khác nhau của đất nước để có cơ sở dữ liệu về các loài ký sinh trùng phổ biến nhất ở các khu vực khác nhau và cải thiện các chương trình kiểm soát và phòng ngừa.

Do các bệnh mà ký sinh trùng có thể lây truyền và thiệt hại mà chúng gây ra, điều quan trọng là phải tẩy giun cho thú cưng và tại Thiên Quân, bạn sẽ tìm được loại thuốc chống ký sinh trùng phù hợp nhất với nhu cầu của họ.

Xem thêm một số sản phẩm tiêu diệt ký sinh trùng: IVERTIN 500, DICLA 25, TOLTRAZURIL ORAL, TULTRAZURIL 2,5%, TULTRAZURIL 5%, SHAMPO PET, ALBENDAZOLE, DOMEX, LEVA 100,…

Mọi thông tin thắc mắc hoặc mua hàng xin liên hệ hotline: 0886 04 05 06 hoặc fanpage THIÊN QUÂN VIỆT NAM.

Tài liệu tham khảo

Taylor, M. A., Coop, R. L., & Wall, R. L. (2015). Veterinary parasitology. John Wiley & Sons.

Durden, L. A., & Hinkle, N. C. (2019). Fleas (siphonaptera). In Medical and veterinary entomology (pp. 145-169). Academic Press.

Lindström, A., & Lindström, J. (2017). First report of spinose ear tick, Otobius megnini (Acari, Argasidae), in Sweden. Experimental and Applied Acarology, 72(2), 179-181.

Saari, S., Näreaho, A., & Nikander, S. (2018). Canine parasites and parasitic diseases. Academic press.

Ninomiya, H., & Ogata, M. (2005). Sarcoptic mange in free‐ranging raccoon dogs (Nyctereutes procyonoides) in Japan. Veterinary dermatology, 16(3), 177-182.

Takle, G. L., Suedmeyer, W. K., Mertins, J. W., & Garner, M. M. (2010). Generalized demodecosis in three sibling, juvenile rock hyraxes (Procavia capensis). Journal of Zoo and Wildlife Medicine, 41(3), 496-502.

Trân, N. H. B., & Hưng, N. H. (2014). TÌNH HÌNH NHIỄM NGOẠI KÝ SINH TRÙNG TRÊN CHÓ TẠI THÀNH PHỐ CẦN THƠ. Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ, (CĐ Nông nghiệp 2014), 69-73.

Bằng, N. P., Chúc, N. T., Hưng, N. H., & Trân, N. H. B. (2016). Các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến tỷ lệ nhiễm giun sán trên chó nuôi tại thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ, (43), 68-73.

Link nội dung: https://khangdienreal.vn/cac-loai-ve-cho-a58362.html